Thứ Hai, 2 tháng 11, 2015

Hướng dẫn cách ủ phân chuồng, xác bã thực vật cùng Trichoderma trong việc trồng gừng


Trichoderma và một số chế phẩm diệt nấm bệnh ở cây Gừng
Hiện nay trong sản xuất nông nghiệp đã sử dụng phân hữu cơ rất phổ biến. phân hữu cơ làm đất tơi xốp, cây trồng dẽ hấp thụ, an toàn khi sử dụng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do hạn chế sử dung thuốc bảo vệ thực vật. nguồn cung cấp phân hữu cơ là các loại phân có gốc động vật như : phân gia súc, phân xanh , rác, … 
Ngày nay, theo sự phát triển của khoa học, công nghệ sinh học, việc sử dụng chế phẩm Trichoderma ủ phân hữu cơ để bón cho cây trồng sẽ giúp tăng cường hệ vi sinh vật có ích trong đất; phân giải nhanh các chất hữu cơ thành dạng dễ tiêu, cung cấp dinh dưỡng cho cây; phòng một số nấm bệnh gây hại cho cây trồng, chất lượng phân cao hơn. Do vậy, những loại chế phẩm này được khuyến cáo sử dụng để tăng cường trong quá trình ủ phân. Trong quá trình Trồng và chăm sóc cây Gừng, chế phẩm Trichoderma là một trong những sản phẩm khá quan trọng nhằm giúp phân hủy đất cũng như diệt nấm bệnh. Để giúp bà con nắm được yêu cầu và cách ủ phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma một cách hiệu quả, chúng tôi xin cung cấp những thông tin quan trọng dưới đây. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc mong bà con trao đổi trực tiếp qua điện thoại với chúng tôi.
*Nên làm phân ủ – Tại sao?
1. Đối với xác bã thực vật:  như vỏ cà phê, thân lá cây bắp, dây thanh long, rơm, gốc rạ,… Những thứ này chưa phải là phân bón, cần ủ với Trichodẻma để chuyển hóa chất hữu cơ thành chất mùn mà cây hấp thu được, làm tăng độ tơi xốp cho đất để hệ rễ, củ phát triển.
Ở vùng trồng lúa, gốc rạ ngập trong bùn gây ra tình trạng ngộ độc hữu cơ cho đất, do chất khí độc sinh ra trong quá trình phân hủy gốc rạ. Các chất khí này có thể là mêtan, sunphua hydrô,…
Nhiều bà con tận dụng Vỏ cà phê để trồng Gừng với mục đích tăng độ tơi xốp. Tuy nhiên Vỏ cà phê tươi còn chứa nhiều chất đường, nông dân rải phủ vỏ cà phê lên bề mặt hố trồng làm cho cây cà phê, hồ tiêu dễ bị nhiễm bệnh, có thể chất đường có trong vỏ cà phê là môi trường thuận lợi và thức ăn cho các loài nấm hại phát triển mạnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự sinh trưởng của cây Gừng.
2. Đối với phân chuồng: Trong phân chuồng đã có sẵn vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ. Vi sinh vật này có trong đường ruột động vật và trong tự nhiên nhưng chúng hoạt động không mạnh. Vì vậy cần có thời gian lâu để ủ cho phân chuồng hoai mục hoàn toàn. Tuy nhiên, trong phân chuồng cũng có chứa những mầm bệnh gây hại cho cây, hoặc mầm bệnh sẽ phát triển sau khi bón phân chuồng tươi vào đất. Đã có rất nhiều bà con trồng Gừng bị vàng lá, thối củ, chết nhanh khi cây mới chỉ mọc 20 – 25 cm, vườn cà phê bị vàng lá trầm trọng sau khi bón phân chuồng tươi khoảng một năm.
3. Trả lại cho đất các loại khoáng chất như đạm, lân, kal, manhê, đồng, sắt. kẽm, măngan… là những chất cây đã lấy đi của đất để nuôi cành lá, cho ra sản phẩm và trả lại trong xác bã thực vật, trong phân chuồng…
* Chế phẩm Trichoderma để ủ phân?
















Thông thường, nông dân cần trộn thêm Urea, Lân và rỉ đường cùng với Tricho rồi ủ với xác bã thực vật hoặc phân chuồng trong khoảng 2 – 3 tháng.
Đây cũng là một trong những cách để nhân sinh khối của Trichoderma. Có thể trong đống ủ chưa đủ quân số men Tricho để phân hủy nhanh chất hữu cơ. Thêm rỉ mật chính là thêm thức ăn để men gia tăng nhanh quân số.
Trong loài Trichoderma koningii có dòng M6 và M8 phân hủy chất hữu cơ rất mạnh và dòng M32 và M35 có thể trừ được mầm bệnh tồn tại trong đống ủ. Một công đôi ba việc…
Tuy nhiên để đạt hiệu quả kinh tế cao, phân hữu cơ trước khi sử dụng phải được ủ hoại nếu không sẽ có tác dụng ngược lại vì phân tươi còn có những vi sinh vật gây hại làm xót cây, bỏng rễ, gây bệnh cho cây. Hơn nữa, hạt cỏ dại còn sống, sau đó nảy mầm và cạnh tranh dinh dưỡng với cây trồng . do đó, phân hữu cơ cần ủ hoại trước khi sử dụng
Để tăng cường hệ vi sinh vật có lợi trong phân và giảm thiểu vi sinh vật có hại trong đất, khi ủ phân cần bổ sung men vi sinh trichoderma.
Tác dụng của Trichoderma
+ Ngăn ngừa rất tốt các bệnh thối rễ, lở cổ rễ, thối thân, . . . cho tất cả các loại cây trồng.
+ Hiệu quả cao trong việc phòng ngừa các loại bệnh do tuyến trùng hại rễ.
+ Đặc biệt còn tăng cường các vi sinh vật có ích và giảm thiểu các vi sinh vật gây hại như nấm : Rhizoctonia, Fusarium, Phytophtora, . . .ngoài ra, trochoderma còn phân hủy nhanh các chất xơ thành các chất hữu cơ cung cấp dinh dưỡng và tăng cường đề kháng cho cây trồng.
* Cách ủ.
Các loại xác bã thực vật, phân chuồng, than bùn, rác… được gọi chung là chất ủ.
– Khuấy kỹ 1 kg Tricho vào phuy 200 lít nước, nếu được thì khuấy thêm vào 1 chai aminô 0,5 lít để bổ sung thức ăn cho men. Phuy men này vừa đủ để ủ cho khoảng 4 khối chất ủ. Có thể trộn thêm phân chuồng vào xác bã thực vật để ủ chung một lần. Khuấy đảo đều nước men trong phuy trước khi múc tưới lên chất ủ.
– Trải chất ủ lên nền xi măng hoặc lên bạt nhựa thanh lớp dày 20 cm, lấy nước men trong phuy tưới đều lên bề mặt chất ủ. Sau đó trải chồng tiếp 20 cm chất ủ lên lớp đầu tiên rồi tưới men. Làm tương tự như vậy cho đến khi hết khối chất ủ.
– Cào banh đống ủ ra, đảo trộn lại cho đều, tưới thêm nước sao cho khi nắm vắt chất ủ thấy nước rịn qua kẽ tay là vừa (đạt độ ẩm khoảng 60%). Sau đó vun chất ủ lại thành đống (như hình vẽ), tủ bạt để giữ ẩm.
– Khoảng 7 – 10 ngày sau, cào banh đống ủ ra, đảo trộn, tưới thêm nước như lần trước rồi vun thành đống, tủ bạt kín lại. Khoảng 20 – 25 ngày sau khi thấy chất ủ đã tơi rã thì có thể đưa đi bón cho cây.
* Chi phí cho một khối chất ủ.
– Nếu không pha thêm aminô: khoảng 15.000 đồng/khối.
– Nếu có pha thêm 0,5 lít aminô: khoảng 25.000 đồng/khối.
ban-ve-dong-u-phan-vi-sinh
Bà con cũng có thể áp dụng phương pháp thứ 2 dưới đây:
1. Vật liệu ủ: Phân gia súc, gia cầm các loại; chất độn: rơm rạ, tro, trấu, lá thân cây phân xanh (lạc dại, cỏ stylo, các loại cây họ đậu đỗ,…).
–  Phân supe lân
– Chế phẩm Trichoderma
 2. Số lượng các vật liệu:
– Vật liệu ủ: 1 tấn phân gia súc, gia cầm các loại
– Phân supe lân: 30 kg
– Chế phẩm Trichoderma:  3 kg, nhiều hơn nếu sử dụng nhiều chất độn.
3. Cách tiến hành:
Các phế phụ phẩm trộn trực tiếp với men Trichoderma (1). Trộn men vi sinh với supe lân (2). Cho một lớp phân gia súc, gia cầm vào hố ủ dày khoảng 20cm. Rải một lớp hỗn hợp (2). Đến lớp (1). Rải một lớp hỗn hợp (2). Tiếp một lớp phân gia súc, gia cầm. Cứ làm tuần tự cho đến hết, đống phân cao khoảng 1-1,5m.
Tưới nước đủ ẩm cho đống phân, ẩm độ ủ phân phải đạt khoảng 50 – 55 % (dùng tay nắm hỗn hợp phân ủ, thấy nước vừa rịn kẽ tay là được). Có thể tưới bằng nước phân heo, nước ure (1 kg ure pha với 100 lít nước). Không nên để quá khô, cũng như quá ướt  làm chậm quá trình phát triển của nấm men. Không nên nén quá chặt sẽ làm hạn chế sự phát triển cuả nấm men, kéo dài thời gian ủ, chất lượng phân không tốt. Dùng bạt màu tối phủ kín đống phân che nắng, che mưa.  Sau 3-5 ngày nhiệt độ của đống phân sẽ tăng lên khoảng 70oC, làm ức chế sự nảy mầm của hạt cỏ cũng như tiêu diệt các loại mầm bệnh có trong phân chuồng có thể gây bệnh cho người và gia súc. Sau đó, nhiệt độ hạ dần. Khoảng 20 ngày sau tiến hành đảo trộn từ trên xuống, từ ngoài vào trong cho đều, tấp thành đống ủ tiếp khoảng 25 – 40 ngày nữa là có thể sử dụng tốt cho cây ăn trái, cây công nghiệp, các loại rau màu…
Chú ý, khi ủ phân bà con nông dân không nên dùng vôi, vì làm huỷ diệt các vi sinh vật trong phân, nên bón ngoài ruộng trước khi làm đất là tốt nhất.
Với cách làm như trên, bà con có thể tự mình sản xuất ra phân hữu cơ vi sinh, mà giá thành lại rẻ. Có thể tiết kiệm chi phí từ 30-50% cho việc mua phân để bón lót. Hơn nữa việc sử dụng phân hữu cơ đã ủ với chế phẩm Trichoderma bón cho cây còn giúp làm phong phú hệ vi sinh vật có ích cho đất, phòng được một số bệnh cây do nấm gây ra, góp phần bền vững môi trường đất canh tác nông nghiệp./.
Phương pháp ủ thứ 3:
1/-Quy trình ủ phân :
–          Số lượng : 1 tấn phân thành phẩm.
–          Nguyên liệu
+ Phân chuồng ( phân heo, bò, gà, trâu, . . .) : 400 – 500kg
+ Xơ dừa, vỏ trấu, vỏ đậu hay các chất bã thực vật gồm : rơm rạ, lá cây, tốt nhất là các cây họ đậu, bèo, lục bình : 500 – 600kg. Tất cả băm nhuyễn dài 2- 3cm
+ Super lân : 30kg
+ Nước  : 150 – 200 lít (tùy chất độn khô hạn).
+ Men vi sinh vật trichoderma: 3 – 5kg (lượng men càng nhiều phân càng nhanh phân hủy).
+ Bạc phủ
2/- Kỹ thuật ủ phân:
– Tất cả các thành phần: phân chuồng + men vi sinh Trichoderma+ nước trộn đều đảm bảo hỗn hợp ủ đạt đủ độ ẩm 50-60% (dùng tay bốc lên,nắm chặt thấy nước rỉ ra là được).
– Đánh thành luống hình than cao khoảng 1,2 -1,5m
– Dùng bạc phủ kín tránh mưa nắng trực tiếp trực tiếp để đảm bảo độ ẩm, hạn chế mất đạm trong quá trình lên men vi sinh.
Lưu ý: nhiệt độ không khí càng cao, thời gian ủ càng ngắn. Ngược lại không khí lạnh và nước nhiều phân chậm phân hủy.
3/-Đảo trộn:
Sau thời gian ủ khoảng 7-10 ngày, nhiệt độ trong phân tăng dần lên khoảng 40-500C. Nhiệt đô tăng cao nhất tại thời điểm ủ đạt đủ độ ẩm sau 25- 30 ngày, có thể tăng đến 50-600C. Lúc này phân cần được đảo trộn để tăng cường hoạt động của men vi sinh. Khi đảo trộn nếu thấy phân khô cần bổ sung thêm nước để đạt độ ẩm 50-60% là tốt. Sau 50- 60 ngày, nhiệt độ giảm dần xuống 300C. khi đó phân đã hoai, khối lượng giảm hơn so với lúc ban đầu.
4/-Sản phẩm sau khi ủ phân:
Sau khi ủ phân, tất cả nhiên liệu đả hoai, phân tơi xốp, chuyển sang màu nâu sẫm, không còn mùi hôi, không nóng, có thể sử dụng như phân hữu cơ vi sinh thích hợp cho tất cả các loại cây trồng như:dùng làm bầu ươm cây con,chất trồng cho hoa kiểng hoặc bổ sung phân bón khi thay chậu, thay đất cho các loại cây kiểng như mai vàng, bonsai, sứ đỏ, kiển lá màu…
Phân  có thể sử dụng chung với phân khoán vô cơ. Tuyệt đối không trộn trực tiếp với vôi bột vì vôi làm hủy diệt hệ lên men vi sinh.
Bà con lưu ý:
Sản phẩm Trichoderma hiện nay rất đa dạng, tùy thuộc sản phẩm Trichoderma mà nhà sản xuất có hướng dẫn cách sử dụng khác nhau trên bao bì sản phẩm: dùng để phòng trừ bệnh hại; hoặc phân hủy phế phụ phẩm từ chăn nuôi, trồng trọt để làm phân bón cho cây trồng. 
– Đối với sản phẩm Trichoderma được đăng ký là thuốc bảo vệ thực vật thì việc sử dụng sẽ sử dụng trực tiếp hay phải có chất nền là phân hữu cơ (tùy thuộc vào hướng dẫn sử dụng ghi trên bao bì sản phẩm).
– Đối với sản phẩm Trichoderma được đăng ký là men vi sinh dùng để ủ chung với pahan chuồng hay các nguyên liệu khác như phân hữu cơ đã ủ hoai, các loại tàn dư thực vật: rơm rạ, cỏ khô, cây phân xanh, … trên bao bì sẽ có hướng dẫn cụ thể.
–  Việc ủ tro trấu (tro được đốt từ trấu) với Trichodema cần bổ sung thêm phân hữu cơ đã ủ hoai để nấm Trichodema có điều kiện phát triển dễ dàng hơn. Lưu ý khi ủ cần trộn đều các nguyên liệu, bổ sung nước để đạt độ ẩm 50 – 60 %, chú ý lớp ủ có độ cao vừa phải và có bạt che hoặc ủ vào trong các bao để nấm Trichoderma phát triển. Khoảng 15 – 20 ngày sau khi ủ có thể bón cho cây trồng.
– Chưa nên rắc vôi bột vào sau khi bón Trichoderma 10 ngày vì việc bón vôi vào đất có thể sẽ tiêu diệt nấm Trichoderma.


Trichoderma, đất và phân bón trong việc trồng Gừng hiệu quả

Mối quan hệ mật thiết giữa Trichoderma, đất và phân bón
Việc phối hợp giữa canh tác truyền thống với công nghệ sinh học ngày càng có nhiều vận dụng mới để trồng và chăm sóc cây Gừng mà nhiều bà con chưa biết. Thậm chí ở vùng trồng Gừng đang bị dịch bệnh gây hại, khi được hỏi đến thì chưa biết, chưa nghe… mà với nhiều người biết rồi, nghe rồi thì… chưa đúng. Là một nông gia áp dụng công nghệ sinh học để trồng và chăm sóc cây nhiều năm qua ở Đông Nam bộ, tôi chia sẻ sau đây, mời bà con tham khảo.
Các bạn thân mến!
Để phòng ngừa và tiêu diệt các loài nấm gây hại cho cây Gừng bằng biện pháp sinh học một cách hiệu quả, chúng ta cần trang bị cho mình những kiến thức cơ bản để áp dụng trên vườn cây của chính mình. Tôi xin mạo nuội chia sẻ cách chăm sóc vườn cây của tôi được áp dụng dựa trên những tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp.
Bón phân là cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng nên chúng ta thường nghĩ rằng bón càng nhiều càng tốt. Thế nhưng hiệu quả thu được của việc bón phân chỉ khi chúng ta bón hợp lý. Thay vì cần phải chia làm nhiều lần để bón trong một vụ mùa, bón theo nhu cầu của cây, chúng ta ngại tốn công nên đã làm ngược lại, là chia làm ít lần bón nhưng mỗi lần lại bón quá dư thừa phân, cây hấp thụ không hết dẫn đến tình trạng lãng phí. Với việc làm như vậy, không những không đạt được điều chúng ta mong muốn mà còn làm đảo lộn hệ sinh thái và có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực khác.
Phân bón hóa học, thuốc BVTV, chất kích thích sinh trưởng nhân tạo là các yếu tố chính gây nên tình trạng ngộ độc đất, chua đất, phá vỡ sự cân bằng vốn có của đất.
Trong khi các loại nấm hữu ích thường tồn tại trong độ pH khoảng 5 – 8. Khi độ pH dưới 4, nấm Trichoderma bất hoạt hoặc chết. Trái lại, khi đất càng chua thì các loại nấm gây hại càng phát triển lấn át nấm hữu ích cả về quân số lẫn sức mạnh.
Bón phân đạm và phân DAP sẽ làm cho độ pH của đất tụt 2 – 3 bậc chỉ trong khoảng vài ngày, phần nào giải thích được tại sao người ta nói: bệnh gây chết nhanh chết chậm trên cây tiêu là bệnh nhà giàu.
Như vậy ta dễ dàng nhận thấy để phòng ngừa bệnh gây hại cho cây Gừng ta phải quan tâm đặc biệt đến mối quan hệ của phân bón, đất và Trichoderma để giữ gìn sự cân bằng vốn có của nó.Theo đó ta sẽ dễ dàng giải thích tại sao cũng cùng một sản phẩm (Tricho) người thì sử dụng có hiệu quả còn người thì không?
Dùng chế phẩm sinh học để kiểm soát dịch bệnh đã và đang là mục tiêu của toàn thế giới, đặc biệt với mục tiêu sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Hiện có hơn 70 loài Tricho được định danh, trong đó tiêu biểu nhất là loài Tricho koningii, Tricho harazianum, Tricho reesei, Tricho viride, chúng sinh sản vô tính bằng bào tử.
Trong mỗi loài có nhiều chủng, được ứng dụng nhiều nhất vẫn là các chủng phân giải hữu cơ (cellulose), các chủng đối kháng nấm bệnh và tuyến trùng.
Ví dụ: Loài Tricho koningii dòng M6 và M8 chỉ có khả năng phân giải hữu cơ thành chất mùn mà hoàn toàn không có khả năng trị tuyến trùng và đối kháng nấm bệnh. Dòng M32, M35 chỉ có khả năng trị tuyến trùng và đối kháng nấm bệnh mà hoàn toàn không phân giải được chất hữu cơ.
Việc nhân sinh khối các dòng cùng một loài cũng khác nhau. Đối với dòng phân giải hữu cơ, chỉ cần dùng thức ăn là xác bã hữu cơ, giống men gốc, rỉ mật và nước là có thể nhân sinh khối được. Đối với dòng kiểm soát đối tượng gây bệnh thì việc nhân sinh khối khó khăn hơn.
Ví dụ: Đối với loài trichoderma dòng M32, thức ăn chính của chúng là protein của nấm rơm, độ pH thích hợp = 6. Dòng M35, thức ăn chính là protein của cám ngũ cốc, độ pH thích hợp = 7,5. Dòng M39, dùng thức ăn chính là protein của hải sản, độ pH thích hợp = 8. Ngoài ra còn phụ thuộc vào nhiệt độ tối thích.
Do vậy, giá thành để nhân giống Tricho trị tuyến trùng và đối kháng nấm bệnh cao hơn so với Tricho ủ xác bả hữu cơ.
Một chức năng khác của Tricho là tiết ra chất kích thích sinh trưởng, giúp hệ rễ ra nhanh, mạnh.
Tuyến trùng có quan hệ mật thiết với nấm, khuẩn và vi rút gây hại, chủ yếu là mở đường cho các loài gây hại xâm nhập vào nốt sần do tuyến trùng gây ra. Sau đó các loài gây hại này lan dần đến rễ cọc, cổ rễ làm chết cây trồng.
Có nên phối trộn Tricho với các sản phẩm khác để phun lên cây hoặc bón gốc cho cây trồng? Tất nhiên là phải trộn rồi vì Tricho là vi sinh vật sống nên phải có nguồn thức ăn để nuôi dưỡng chúng. Nhưng trộn như thế nào cho đúng, để bảo toàn được Tricho và để Tricho phát huy được hiệu quả cao nhất. Có lẽ điều này sẽ làm không ít người băn khoăn. Như mọi người đã biết, Tricho có thể sử dụng nhiều nguồn thức ăn khác nhau từ carbonhydrat, Amino acid (a xít amin) đến Ammonia. Bản chất của sinh vật trong tự nhiên thường là phải cạnh tranh để sinh tồn, nên khi phối trộn nhiều loại nấm ngay cả cùng loài với nhau ta phải biết được là sẽ đối kháng hay tương tác.
Hiện nay trên thị trường có bán nhiều loại phân amino dùng để phun trên lá hoặc tưới gốc. Ta có thể phối trộn Tricho với loại phân này để bón cho cây, vừa là dinh dưỡng cho cây vừa là nguồn để nuôi Tricho. Theo tôi được biết các chuyên gia về phân bón chỉ khuyên có thể phối trộn Tricho với các sản phẩm phân bón hữu cơ, chứ chưa có tài liệu nào cho phép phối trộn Tricho với các phân bón vô cơ dạng hạt như NPK, DAP… Cẩn thận với các sản phẩm như siêu lân, siêu kali vì khi phối trộn Tricho với các sản phẩm này có thể vô tình ta đã tiêu diệt mất Tricho trước khi đưa chúng đến với cây trồng. Không riêng gì Tricho mà các sản phẩm khác khi phối trộn với nhau ta phải có sự cân nhắc thật kỹ càng, tránh tình trạng đáng tiếc xảy ra, tiền mất tật mang.
Chúc các bạn được những vụ mùa bội thu !

Bệnh thường gặp ở cây gừng và cách phòng tránh hiệu quả nhất


Gừng là loại cây dễ trồng, dễ chăm sóc và cho năng suất cao, hiệu quả kinh tế ổn định. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều loại cây thân thảo khác, trong quá trình trồng và chăm sóc, cây Gừng cũng có thể mắc phải một số bệnh đặc trưng mà bà con cần lưu ý để phòng tránh nhằm giảm thiểu thiệt hại. Công ty Nông sản Việt Tuấn xin chia sẻ một số bệnh thường gặp ở cây gừng để bà con cùng nắm bắt cho vụ mùa 2015 đạt năng suất cao nhất.
Gừng là cây thân thảo, sống lâu năm, cao 0,6 – 1m. Lá màu xanh đậm, dài 15 – 20 cm, rộng khoảng 2cm, bề mặt nhẵn bóng, gân ở lá hơi nhạt, lá mọc so le, thẳng đứng, có bẹ lá, không có cuống. Thân ngầm phình to, chứa các chất dinh dưỡng gọi là củ. Xung quanh củ có các rễ tơ. Rễ và củ chỉ phát triển tập trung ở lớp đất mặt, sâu từ 0 –15 cm. Cây gừng ít khi ra hoa, trục hoa mọc từ gốc, dài 15 – 20 cm. Hoa màu vàng xanh, dài 5cm, rộng 2 – 3 cm, có 3 cánh hoa dài khoảng 2cm, mép cánh hoa và nhị hoa màu tím.
Cây gừng có vị cay nồng ấm, có rất nhiều công dụng chữa bệnh chính vì thế trong những năm gần đây nhu cầu sử dụng gừng ngày càng nhiều nên gừng có giá trị kinh tế rất cao. Tuy nhiên cây gừng thường bị một số bệnh gây hại đáng kể làm ảnh hưởng đến năng suất.
Để việc trồng gừng đạt hiệu quả về năng suất thì bà con nông dân cần phải biết rõ một số thông tin về bệnh trên gừng để có hướng chủ động và đưa ra biện pháp phòng trị kịp thời.
  1. Bệnh cháy lá
Tác nhân gây bệnh là nấm Pyricularia grisea thường gây hại nặng trong những ngày có ẩm độ cao, ít nắng có nhiều sương mù và kéo dài.
Triệu chứng gây hại: Vết bệnh là những vết có hình thoi màu trắng xám, nhiều vết bệnh có thể liên kết lại làm cháy cả lá. Bệnh nặng làm các lá bị cháy cây còi cọc phát triển kém giảm năng suất, đôi khi bệnh làm cháy rụi cả bụi gừng.
Biện pháp phòng trừ:
– Vệ sinh đồng ruộng sau khi thu hoạch, gom những cây bị bệnh đem chôn.
– Chọn giống sạch bệnh.
– Trồng với mật độ vừa phải, không nên trồng qúa dày, bón thêm tro trấu hoặc phân kali cho ruộng gừng khi bị bệnh.
– Thăm ruộng thường xuyên. Nếu phát hiện trên lá có đốm bệnh, nên ngắt bỏ để hạn chế lây lan.
– Phun một trong các loại thuốc sau Fuji-one 40 EC, Rovral 50 WP, Kasuracide (kasai) 21,2 WP, Racide 30 WP, với liều lượng 10-25 cc(g)/10 lít, phun 7-10 ngày/lần.
  1. Bệnh thối củ gừng
Bệnh thối củ gừng có 2 dạng mà thông thường bà con rất khó xác định được nguyên nhân dẫn đến việc phòng trị không đúng và không kịp thời làm ảnh hưởng đến năng suấtThối khô củ gừng và thối mềm nhũn ướt. Bệnh thối khô do nấm Rhizoctonia solani gây ra. Thối nhũn ướt, đó là do vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra.
  1. a) Thối củ do nấm
Triệu chứng: Vết bệnh đầu tiên là những đốm màu nâu xám, rộng khoảng 3-5mm, có những lá bị úa vàng và rủ xuống. Nấm bệnh tấn công vào phần gốc cây gần mặt đất. Bệnh nặng, vết bệnh lan rộng ra, không có hình dạng nhất định, xung quanh có viền nâu đen. Phần lớn vết bệnh có xu hướng lan xuống phía gốc, làm thối một phần củ. Vết bệnh thối khô và xốp. Bệnh nặng có thể làm chết cả cây và toàn bộ củ bị thối.
Bệnh sinh sản bằng hạch nấm. Hạch nấm tồn tại trong đất rất lâu, có thể tới 2-3 năm. Hạch nấm trong đất, nảy mầm thành sợi nấm, xâm nhập vào gốc và củ gừng. Điều kiện thời tiết nóng và ẩm là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển, có khi làm thối cả khóm gừng.
  1. b) Thối củ do vi khuấn:
Vết bệnh lúc đầu là một đốm nhỏ màu nâu xám hơi mọng nước. Sau đó vết bệnh lớn dần và ăn sâu vào bên trong làm củ bị thối. Thối củ do vi khuẩn khác với bệnh thối khô do nấm là củ bị mềm nhũn, cắt ngang chổ thối thấy có dịch nhờn hoặc khi ấn tay vào có xì mủ hoặc nước, có mùi hôi rất khó chịu. Cây bị bệnh lá úa vàng và đổ gục. Bệnh còn gây hại trong thời gian bảo quản. Vi khuẩn tồn tại trong đất, xâm nhập vào củ qua vết thương.
Biện pháp phòng trị
Theo kinh nghiệm nông dân ở một số địa phương, để hạn chế mầm bệnh tấn công củ và dễ dàng cách ly cây bị bệnh để tránh lây lan, bà con nông dân thường trồng gừng trong sọt hoặc trong bao. Nguyên liệu:
  • Đất được phơi khô.
  • Trộn với phân hữu cơ và nấm Trichoderma sp.
  • Liều lượng 5 gr chế phẩm Tri cô/ 4 bao đặt trong 1m2. Không những hạn chế được bệnh thối củ mà năng suất gừng cũng đạt khá cao trung bình khoảng 15 kg/4 bao/m2.
– Vệ sinh đồng ruộng. Thu dọn tàn dư cây trồng sau thu hoạch;
– Khi phát hiện trên luống gừng có triệu chứng thối củ thì nên tách củ bị thối loại bỏ để hạn chế lây lan;
– Đầu vụ, bón phân vôi cho đất. Lên luống cao, thoát nước tốt. Không trồng mật độ dày quá, tránh bón nhiều phân đạm. Ngay từ đầu vụ khi làm đất nên sử dụng chế phẩm sinh học Trichoderma trộn với phân hữu cơ hoai mục. Chú ý không để đất bị ngập nước;
– Khi xác định là bệnh thối khô thì phun thuốc Anvil 5SC, Vivadamy 3DD, Bonanza 100SL. Nếu bệnh thối nhũn do vi khuẩn thì phải sử dụng thuốc đặc trị vi khuẩn như: New Kasuran 16.6 BTN, Starner 20WP, Xanthomix 20 WP.
Chú ý: Bảo đảm thời gian cách ly.
  1. c) Bệnh thán thư trên gừng
Tác nhân: do nấm Colletotrichum sp gây hại
Triệu chứng: Vết bệnh có màu vàng lan từ mép lá vào trong làm khô lõm lá
Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa và có nhiệt độcao , mùa nắng bệnh ít gây hại hơn .
Biện pháp phòng trừ:
– Thu gom và tiêu hủy những bộ phận bị bệnh để tránh lây lan.
– Bón phân cân đối , nhất là tránh bón thừa đạm.
– Khi trời ẩm ướt, sương mù nhiều nên phun thuốc hóa học ngừa hoặc phun khi bệnh mới chớm. Một số thuốc hiệu quả với bệnh thán thư : Antracol 70WP, Amistar 250SC, Manage 15WP, Mataxyl 500WP,….
  1. Bệnh mốc sương
Tác nhân: do nấm Phytophthora infestens gây hại
Triệu chứng:
Bệnh thường gây hại nặng trong điều kiện nhiệt độ thấp và ẩm độ cao.
Vết bệnh xuất hiện ở chóp lá màu vàng như úng nước, mặt dưới lá sũng nước màu vàng tươi
Biện pháp phòng trừ: Phun Ridomil Gold, Copper Zinc theo khuyến cáo
Bà con thân mến!
Chỉ đọc hoặc nghe những bệnh này thôi tưởng ghê ghớm nhưng trong quá trình trồng và chăm sóc thực tế sẽ rất đơn giản để xử lý và giải quyết cũng như phòng tránh nhằm mang lại hiệu quả cao khi thu hoạch Gừng.

Kỹ thuật trồng gừng trên đất ruộng dành cho người mới bắt đầu


Cây gừng có thể sống ở đất ẩm, đất xấu, bóng râm của vườn, khi trồng thành ruộng, theo luống phải phủ ở giai đoạn đầu, khi cao sẽ không phải phủ luống chỉ tủ gốc. Dưới đây là một số yêu cầu khái quát mà người mới lần đầu trồng gừng nên biết để đạt hiệu quả cao khi thu hoạch.

1. Thời vụ trồng gừng
Gừng trồng ở nước ta ngoài miền Bắc thường bắt đầu từ đầu xuân (tháng 1-2) đến cuối vụ xuân (tháng 4-5). Ở miền Nam và các tỉnh Tây Nam bộ thường bắt đầu từ tháng 4 – 5 ( đầu mùa mưa).  Cuối năm khoảng từ tháng 10-11-12 hàng năm ta có thể thu gừng. Thời gian sinh trưởng của gừng từ 8-10 tháng tùy từng giống.
2. Đất trồng gừng
Cây gừng có thể sống ở đất ẩm, đất xấu, bóng râm của vườn, khi trồng thành ruộng, theo luống phải phủ ở giai đoạn đầu, khi cao sẽ không phải phủ luống chỉ tủ gốc. Nên trồng đất có khả năng thoát nước, gừng có thể trồng được ở nhiều đất, song cho năng suất khác nhau tùy thuộc chất đất.
3. Ươm hom giống gừng
Dùng tay bẻ nhánh thành từng hom, mỗi hom có ít nhất 2-3 mắt, trải đều cho khô nhựa phần bẻ sau đó đem ủ giống.
Sau bẻ hom 4-6 tiếng: ta xếp đều trên các khay, dưới lót bao, trên phủ bao ẩm. Sau 2-3 ngày dùng rơm rác mục sạch phủ kín, tưới ẩm và che kín để khoảng 1-2 tuần.
Sau 10-15 ngày các hom gừng nhú mắt, ta có thể đem trồng (hom già mọc chậm hơn hom bánh tẻ).
4. Phân bón cho gừng
Tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng, thực trạng của cây Gừng và mục đích sử dụng, lưọng phân cần cho 1 ha:
Bón lót 3 -5 tấn phân chuồng (nên kết hợp phân trùn và các loại phân khác) và các chế phẩm sinh học với lượng thích hợp;
Bón thúc 100 -120 kg Urea + 150 -170 kg Super lân + 200 -220 kg Kali vào các thời điểm 25 -30, 90 -100 và 150 -160 NST.

*Chú ý: 
ngoài các thời điểm bón phân nêu trên, nếu thấy lá gừng bị vàng do thiếu đạm thì có thể tiến hành bón qua lá bằng cách phun với lượng 10g Urea/bình 10 lít nước.
Phân chuồng 5-10 tấn/ha, phân lân 80kg/ha, phân kali 100kg/ha, cả 2 được chia đều để bón thúc 2 lần.
Nếu có công ta chia phân chuồng và lân để bón theo hàng và hốc là tốt nhất.
5. Kĩ thuật trồng gừng
– Nên đánh luống: Rộng 1,2-1,5m, cao 35-40cm.
– Hàng cách hàng 30cm, cây cách cây 20cm
– Mỗi hốc đặt một hom.
– Lấp mùn nhẹ phủ lên, tưới giữ ẩm 1 tuần đầu để cây mọc đều, phủ đất và phủ rơm rồi tưới nước giữ ẩm.
6. Chăm sóc cây gừng
– Sau khi mọc 1 tháng bón thúc đợt 1 (bón ½ đạm, ½ kali).
– Sau khi mọc 2-3 tháng bón thúc đợt 2. Bón hết phần đạm, kali còn lại.
7. Thu hoạch gừng
Khi gừng có lá vàng và khô trên 2/3 số là là có thể thu hoạch gừng. Khi thu hoạch chú ý tránh gãy, dập gừng. Kĩ thuật thu tránh gãy là giữ nguyên cả khóm củ gừng ta cuốc gia gốc 20-25cm, sau đó nhổ nhẹ để lấy cả khóm củ, tỉa hết đất để có tảng củ của khóm.
8. Phòng trừ sâu bệnh: Xem bài: Những bệnh thường gặp ở  cây Gừng

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015